Lịch sử hoạt động Boeing_Model_15

Đợt giao hàng 25 chiếc PW-9 đầu tiên bắt đầu vào tháng 10 năm 1925. Boeing giao tổng cộng 113 chiếc PW-9 thuộc mọi phiên bản bao gồm cả các nguyên mẫu cho Không quân Lục quân Hoa Kỳ từ năm 1925 đến tháng 2 năm 1931. Hầu như mọi chiếc PW-9 đều phục vụ trong các đơn vị tại nước ngoài: tại Hawaii trong Nhóm hỗn hợp số 5 tại Luke Field và sau này là Nhóm tiêm kích số 18 tại Wheeler Field, và tại Philippines trong Nhóm hỗn hợp số 4 tại Clark FieldLuzon. PW-9 còn được trang bị trong các phi đội tiêm kích số 3, 6, 19 từ năm 1925 đến năm 1931.

Hải quân đã đặt mua 10 chiếc có tên gọi FB-1 vào tháng 12 năm 1924, nó không được sửa đổi để hoạt động phù hợp với hải quân (ví dụ không có móc hãm), và được chuyển cho các phi đội của Thủy quân lục chiến Hoa KỳVF-1M, VF-2M, và VF-3M, được triển khai đến Trung Quốc để hỗ trợ Lực lượng Viễn chinh Thủy quân Lục chiến.[2] Hai máy bay bổ sung, có tên gọi FB-2, được sửa đổi để hoạt động trên tàu sân bay USS Langley (CV-1), nó được thêm vào số hãm và một trục xe cho bộ phận hạ cánh. Những máy bay này đi vào hoạt động trong phi đội VF-2 tháng 12 năm 1925. Nói chung những kết quả thỏa mãn đã dẫn tới một đơn đặt hàng cho 27 chiếc FB-5 khác, đây là những máy bay tiêm kích đầu tiên của Hải quân Mỹ được mong đợi chuyên hoạt động trên tàu sân bay. Chúng được nâng cấp với động cơ 525 hp Packard 2A-1500, và có một móc ở dưới trục xe, sử dụng để hướng máy bay quan những dây cáp trên sàn tàu. FB-5 bay lần đầu vào 7 tháng 10 năm 1926 và được giao cho hải quân bắt đầu vào tháng 1 năm sau, được chở trên những xà lan trong Puget Sound từ nhà máy của Boeing đến Langley trong cảng Seattle. Sau đó được cẩu lên tàu sân bay.[3]